Người bệnh Basedow cần biết: cơn nhiễm độc hormon giáp kịch phát

Cơn nhiễm độc hormon tuyến giáp kịch phát hay còn gọi là cơn bão tuyến giáp (thyrotoxic storm) - một biến chứng tương đối hiếm gặp, chiếm tỷ lệ khoảng 1 - 2%

Chẩn đoán và điều trị bệnh nhân Basedow đã được cải thiện một cách đáng kể, nên số trường hợp bị bão giáp đã giảm trong thập kỷ gần đây, tuy vậy vẫn còn nhiều trường hợp có cơn nhiễm độc hormon tuyến giáp kịch phát bị bỏ qua không được chẩn đoán kịp thời trên lâm sàng. 

Cơn nhiễm độc hormon tuyến giáp kịch phát chủ yếu gặp ở bệnh nhân Basedow, song có thể gặp ở cả bệnh nhân bướu nhân có nhiễm độc hoặc các nguyên nhân hiếm gặp khác.

Yếu tố thuận lợi gây cơn nhiễm độc hormon tuyến giáp kịch phát

+ Nhiễm trùng, nhiễm độc.

+ Phẫu thuật tuyến giáp hoặc bên ngoài tuyến giáp.

+ Chấn thương.

+ Hạ đường huyết.

+ Sinh đẻ ở phụ nữ.

+ Sờ nắn mạnh lên tuyến giáp.

+ Chấn thương tâm lý.

+ Ngừng thuốc kháng giáp tổng hợp đột ngột.

+ Điều trị bằng 131I.

+ Toan hoá do tăng ceton ở bệnh nhân đái tháo đường.

+ Tắc, nghẽn đường thở .

+ Đột qụy não.

Cơ chế bệnh sinh

Cơ chế bệnh sinh của cơn nhiễm độc hormon tuyến giáp kịch phát đến nay chưa hoàn toàn sáng tỏ. Tuy vậy có 2 cơ chế nói chung đóng vai trò quan trọng. 

+ Cơ chế thứ nhất liên quan đến việc tăng một cách đột ngột hormon tuyến giáp do được giải phóng từ các nang tuyến giáp vào máu. Ví dụ như bệnh nhân bị phẫu thuật hoặc kích thích mạnh, kéo dài đối với tuyến giáp, tương tự như vậy cơn nhiễm độc hormon tuyến giáp kịch phát xuất hiện theo cơ chế này khi bệnh nhân điều trị bằng phóng xạ 131I hoặc ngừng đột ngột thuốc kháng giáp tổng hợp.

+ Cơ chế thứ 2 liên quan đến việc tăng đột ngột hormon tuyến giáp tự do đã có sẵn. Hiện tượng này xuất hiện khi khả năng gắn kết của các protein huyết thanh đối với hormon tuyến giáp giảm đi đáng kể. Ví dụ khi nhiễm trùng như viêm phổi, viêm bể thận - thận.

Cũng có trường hợp cơn nhiễm độc giáp xảy ra lại không có tăng nồng độ T3, T4 một cách đáng kể. Ví dụ: sự kết hợp nhiễm độc hormon giáp nặng với hôn mê tăng ceton do đái tháo đường gây ra cơn bão giáp. Vì vậy một số trường hợp gây khó khăn trong chẩn đoán phân biệt bệnh nhân nhiễm độc hormon tuyến giáp mức độ nặng có biến chứng với bệnh nhân có cơn nhiễm độc hormon  tuyến giáp kịch phát.

Triệu chứng lâm sàng

+ Cơn nhiễm độc hormon tuyến giáp có thể xảy ra từ từ một vài giờ hoặc một vài ngày, song biểu hiện lâm sàng thì thường rầm rộ.

+ Sốt cao, có thể lên tới 39 - 40oC.

+ Buồn nôn, nôn, vã mồ hôi, da nóng ẩm, xung huyết, ỉa lỏng dẫn đến rối loạn nước và điện giải, có thể vàng da rất nhanh.

+ Bệnh nhân có thể đau bụng lan toả, gan to, lách to, thay đổi chức năng gan, gan có thể mềm do ứ trệ hoặc hoại tử tế bào gan.

+ Bồn chồn, luôn trong tình trạng hưng phấn không ngủ, có thể loạn thần cấp sau đó vô lực, mệt lả, teo cơ nhanh, có thể giả liệt cơ, thậm chí hôn mê.

+ Nhịp tim nhanh, đa số là nhịp xoang, dễ xuất hiện cơn nhịp nhanh kịch phát trên thất, có thể có các rối loạn nhịp: ngoại tâm thu, loạn nhịp hoàn toàn, cá biệt có thể suy tim ứ trệ, huyết áp thấp, có thể trụy mạch hoặc sốc tim.

 

Các xét nghiệm

+ Nồng độ hormon tuyến giáp: T3, T4 tăng, ngoại trừ trường hợp cơn nhiễm độc hormon tuyến giáp kịch phát xảy ra ở bệnh nhân có hôn mê tăng ceton do đái tháo đường, trường hợp này thường có T3 thấp hoặc bình thường. Tình huống đó chẩn đoán rất khó khăn còn gọi là “nhiễm độc cùng tồn tại” (coexistent thyrotoxicosis) mặc dù biểu hiện lâm sàng của cơn bão giáp là hiển nhiên.

+ Độ tập trung 131I của tuyến giáp tăng.

+ Đường máu tăng mức độ vừa phải ở người trước đó không có đái tháo đường tụy, có thể do sự giải phóng insulin bị ức chế.

+ Số lượng bạch cầu ở máu ngoại vi có thể tăng mức trung bình không phải do nhiễm trùng trong khi các chỉ số khác của huyết học lại bình thường.

+ Hầu hết nồng độ các chất điện giải ở trong giới hạn bình thường, ngoại trừ nồng độ canxi có thể tăng nhẹ.

+ Gan có thể bị tổn thương dẫn đến tăng SGOT, SGPT và bilirubin.

+ Nồng độ cortisol có thể tăng giống như trong một số tình huống chấn thương tâm lý cấp tính, còn dự trữ adrenalin lại giảm sút do cơ chế tự miễn dịch. Nếu sự thiếu hụt adrenalin không xảy ra thì sự dự trữ của nó có thể tăng.

Điều trị

Nếu cơn nhiễm độc hormon tuyến giáp kịch phát không được chẩn đoán và điều trị kịp thời, tích cực thì tỉ lệ tử vong tới 75% các trường hợp (ở bệnh nhân cao tuổi tới 100%).

Mục đích của điều trị cơn nhiễm độc hormon tuyến giáp kịch phát bao gồm:

+ ức chế sự hình thành hormon tuyến giáp:

- PTU: liều 600 - 1200mg/ngày, chia đều 200mg/4 giờ cho bệnh nhân uống hoặc bơm qua sonde dạ dày .

- Methimazol: 120mg/ngày, chia 20mg/4 giờ.

+ ức chế sự giải phóng hormon từ tuyến giáp:

- Dùng iodin dưới dạng dung dịch lugol 1% ´ 10 giọt/lần 3 lần/ngày. Hoặc NaI: 1 - 2 gam/24h tiêm tĩnh mạch.

- Lithium carbonat cũng có tác dụng chống lại sự phóng thích hormon tuyến giáp.

+ ức chế thần kinh giao cảm:

- Propranolol: uống liều 120 - 240mg/ngày, chia 20 - 40 mg/mỗi 4 - 6 giờ, trường hợp nặng có thể tăng tới 60 - 120mg/mỗi 4 - 6 giờ. 

Nếu có rối loạn nhịp như cơn nhịp nhanh kịch phát trên thất thì có thể dùng propranolol đường tĩnh mạch nhưng cần được theo dõi trên monitoring. Liều tiêm tĩnh mạch ban đầu 0,5 - 1 mg/10 - 15 phút; mức độ nặng và cần thiết có thể tăng lên 2 - 3 mg/10 - 15 phút và kéo dài trong nhiều giờ trong khi chờ đợi tác dụng của thuốc qua đường uống.

- Nếu có chống chỉ định với propranolol như co thắt phế quản, suy chức năng thất trái nặng có thể thay thế bằng diltiazem 30 - 60mg/mỗi 4 - 6 giờ hoặc reserpin 2,5 - 5mg/mỗi 4 giờ, tiêm bắp (nên thử test với reserpin 1mg và theo dõi chặt chẽ huyết áp trước khi dùng liều điều trị); hoặc guanethidin 30 - 40mg/mỗi 6 giờ bằng đường uống.

Cần nhớ rằng cả hai loại thuốc trên đều có thể gây hạ huyết áp và ỉa lỏng.

+ Điều trị bổ trợ:

Hydrocortisol hemisuccinat: 50 mg tiêm tĩnh mạch/6 giờ/lần hoặc cho uống prednisolon 40 - 60 mg/ngày.

+ Điều trị triệu chứng và các biểu hiện nguy kịch:

- Nếu bệnh nhân sốt cao: đắp khăn ướt, chườm đá, dùng acetaminophen (acetamol) uống hoặc đặt viên thuốc đạn. Tránh dùng aspirin vì aspirin dễ gắn với thyroglobulin làm T4 sẽ được giải phóng, hậu quả là T4 tự do lại cao thêm.

- Nước - điện giải: truyền tĩnh mạch chậm các dung dịch mặn, ngọt ưu trương 4 - 5 lít/ngày, thêm kali nếu cần.

- An thần: tốt nhất là phenobarbital ngoài tác dụng an thần nó còn tăng sự thoái biến của T4, T3 ở ngoại biên, khử hoạt tính của T4 và T3.

- Dinh dưỡng: cho ăn qua đường miệng hoặc sonde dạ dày.

+ Điều trị các biểu hiện nguy kịch: nếu có suy tim cho digitalis, lợi tiểu, ôxy liệu pháp.

Theo dõi chức năng hô hấp, đặt nội khí quản khi cần thiết, loại trừ các yếu tố tác động nhất là nhiễm khuẩn.

+ Điều trị đề phòng cơn tái phát dùng 131I trong 2 tuần.

Bảng: Tổng hợp các biện pháp điều trị cơn bão giáp.

Mục đích và thuốc sử dụng

Liều lượng

+ ức chế tổng hợp hormon:

- PTU

- Methimazol

200 mg/cứ 4 giờ, uống hoặc đặt qua sonde.

20 mg/cứ 4 giờ, uống hoặc đặt qua sonde.

 

+ ức chế giải phóng hormon:

    Iodine

Dung dịch lugol, KI: 10 giọt/lần x 3 lần/ngày,    

     NaI: 1g/24h, tĩnh mạch.

+ ức chế thần kinh giao cảm:

   Propranolol

                20 - 40mg/cứ 4 - 6 giờ

0,5 - 1mg/cứ 10 - 15 phút (TM)

+ Điều trị bổ trợ:

   Hydrocortisol

100mg/cứ 8 giờ (300mg/ngày), tĩnh mạch.

 

+ Điều trị triệu chứng và các

   biểu hiện nguy kịch:

- Hạ sốt, bù nước, điện giải, dinh   

  dưỡng, an thần.

- Điều trị suy tim.

 - Chườm đá, acetaminophen, HTN 5%, điện giải,

    vitamin, phenobarbital, kháng sinh.

 - Digoxin, lợi tiểu, ôxy.

 

 

+ Dự phòng tái phát.

 - Điều trị nguyên nhân, dùng phóng xạ 1312 tuần.

Bảng: Cấp cứu cơn bão giáp bằng kết hợp thuốc với các biện pháp kỹ thuật.

Mục đích và biện pháp

+ Loại bớt hormon ra khỏi máu:

    - Lọc huyết tương (plasmapheresis).

    - Thẩm phân màng bụng.

    - Truyền huyết tương bao bọc gắn kết hormon.

+ ức chế giải phóng hormon: lithium carbonat 300mg/mỗi 6 giờ.

+ ức chế chuyển T4 ® T3 ở ngoại vi:  ipodat 1g/ 24h.

+ Thay thế các ức chế giao cảm: ức chế dòng canxi (diltiazem 30 - 60mg/4 - 6 giờ).

Đ.Đ.T (Tạp chí Đái tháo đường)

Bài viết khác

0983609369

© TRUNG ƯƠNG HỘI NGƯỜI GIÁO DỤC BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG VIỆT NAM. All rights reserved.