Bs Nguyễn Văn Lực chia sẻ về bệnh Parkinson
Các triệu chứng của bệnh Parkinson
Bệnh Parkinson (hay còn gọi là PD) là một rối loạn thoái hoá của hệ thần kinh trung ương gây ảnh hưởng đến tình trạng cử động, thăng bằng và kiểm soát cơ của bệnh nhân.
Bệnh Parkinson thuộc nhóm các bệnh rối loạn vận động. Nó có đặc điểm cứng cơ, run, tư thế và dáng đi bất thường, chuyển động chậm chạp và trong trường hợp bệnh nặng người bệnh có thể mất đi một số chức năng vận động vật lý. Các triệu chứng chính xuất hiện tương ứng với sự giảm các kích thích ở vùng vỏ não thuộc phạm vi điều khiển của hạch nền. Thông thường điều này liên quan đến sự giảm hình thành và sản xuất dopamine trong tế bào thần kinh dopaminergic của não giữa (cụ thể là substantia nigra. PD là bệnh mãn tính tự phát, hoặc trong trường hợp thứ cấp, nguyên nhân gây bệnh có thể là do độc tính của một số loại thuốc, chấn thương đầu, hay các rối loạn y tế khác
Parkinson là căn bệnh chưa rõ nguyên nhân
Cho đến nay các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra nguyên nhân chính gây ra bệnh Parkinson. Khoảng 5-10% ca bệnh parkinson có yếu tố gene, có sự tương tác giữa gene và điều kiện môi trường đặc biệt gây ra bệnh. Bệnh cũng gia tăng ở nhóm có tiền sử gia đình bị bệnh Parkinson hoặc tiếp xúc nhiều với các loại hóa chất, thuốc trừ sâu.
Parrkinson cần phát hiện sớm
Giai đoạn đầu các triệu chứng lâm sàng của bệnh thường ít bộc lộ nên khó nhận biết. Người bệnh mệt mỏi, có cảm giác cứng lưng, cổ, vai, háng. Cột sống và các chi có xu hướng gấp, kém mềm mại, các động tác bị chậm lại. Khi đi, cánh tay ít hoặc không đung đưa theo nhịp bước. Dần dần, bước đi ngắn lại. Tần số chớp mắt cũng giảm đi. Khe mi có vẻ rộng ra tạo cảm giác người bệnh luôn nhìn “chăm chú”. Nếu gõ vào gốc mũi, người bệnh mất khả năng ức chế nháy mắt gây hiện tượng rung giật mi mắt. Khi bệnh biểu hiện rõ có các triệu chứng sau: Người bệnh có cảm giác run khi nghỉ, xuất hiện khi các cơ ở trạng thái nghỉ. Dấu hiệu này sẽ biến mất khi vận động, hoặc khi ngủ. Run tăng lên khi xúc động, tập trung, run của bệnh Parkinson có đặc điểm đều đặn, bốn chu kỳ/giây. Run thường xuất hiện ở các ngón tay, gây ra động tác như “vê thuốc lào hoặc đếm tiền”, ngoài ra run có thể gặp ở chi dưới, miệng hoặc vùng đầu.
Giảm vận động, là triệu chứng cơ bản và xuất hiện sớm ở người bệnh Parkinson. Các động tác khởi đầu vận động chậm chạp, tốc độ thực hiện các động tác chậm (bradykinesia) và giảm biên độ của các động tác (hypokinesia) làm động tác trở nên nghèo nàn (giống các thước phim quay chậm), hiện tượng bất động thấy rõ ở hai tay. Ở giai đoạn muộn, có dấu hiệu “đông cứng”. Mỗi lần bắt đầu ngồi dậy, hoặc đi, người bệnh rất khó cử động. Hiện tượng này có thể xuất hiện trong tất cả các hoạt động trong ngày như nói, viết, làm ảnh hưởng nhiều tới cuộc sống hàng ngày của người bệnh. Sau cùng ngã là hậu quả của sự rối loạn thăng bằng và điều phối các cơ trục thân thể, rối loạn phản xạ tư thế. Hậu quả của ngã có thể làm gãy xương khiến bệnh nhân liệt giường,tổn thương sức khỏe nghiêm trọng, nhất là người bệnh thường tuổi cao nên các thương tích về xương khó liền.
Bệnh Parkinson rất khó và hầu như không phát hiện trên các xét nghiệm hay chẩn đoán hình ảnh mà chủ yếu bằng cách khám lâm sàng qua các triệu chứng của bệnh nhân. Do đó, bệnh sẽ rất dễ bị bỏ qua hoặc ít được phát hiện sớm nếu bệnh nhân không được khám tại các cơ sở có bác sĩ chuyên khoa nội thần kinh.
Tuân thủ chỉ định của bác sĩ
Bệnh Parkinson là bệnh mạn tính, cho đến nay y học hiện đại chưa có cách nào để phòng ngừa và chữa khỏi hẳn được bệnh này. Do đó, bệnh cần được phát hiện sớm, điều trị kịp thời nhằm hạn chế tiến triển của bệnh và điều quan trọng bệnh nhân cần tuân thủ chặt chẽ chỉ định của bác sĩ. Nguyên tắc điều trị là một quá trình chăm sóc tinh tế, cần có sự theo dõi sát sao của thầy thuốc và hợp tác chặt chẽ của người bệnh. Việc chọn thuốc không những phụ thuộc vào sự đáp ứng của từng bệnh nhân mà còn phụ thuộc vào từng giai đoạn bệnh nên không có phác đồ chung cho tất cả mọi bệnh nhân.
Phục hồi chức năng là rất quan trọng
Các biện pháp phục hồi chức năng cần được thực hiện song hành với điều trị thuốc để khắc phục những tàn tật do bệnh gây nên. Mục đích của vật lý trị liệu là làm giảm tính co cứng và tập luyện các cử động nhịp nhàng và điều hợp để duy trì sự hoạt động thể chất, từ đó tạo ảnh hưởng tốt đối với tâm lý của người bệnh.
Những phương thức vật lý trị liệu thường dùng có rất nhiều và cần được kết hợp với nhau mới đem lại kết quả. Các cử động thụ động, nhịp nhàng và đầy đủ tầm độ ở tất cả các khớp của cơ thể và sự nâng đỡ toàn thân bằng kỹ thuật treo là những phương pháp có hiệu quả để tạo thư giãn toàn thân. Bệnh nhân cần tập cử động chủ động có trợ giúp, tự do hay đề kháng theo điệu nhạc hay nhịp đếm để cố gắng tạo tính tự động cho cử động tự ý.
Tập luyện tư thế tốt như ngồi trên ghế, bò, quỳ,... Tập luyện dáng đi với bước dài và tay đong đưa cầm bóng, bắt bóng, hoặc có thể nặn đất, xếp hình…để tập cử động khéo léo của bàn tay bằng hoạt động trị liệu. Lưu ý, trong mỗi buổi tập cần có thời gian nghỉ và cho người bệnh hít thở sâu. Người bệnh làm cử động chủ động theo nhịp đếm của kỹ thuật viên, nếu có thể tập theo nhạc càng tốt.
Hiền Trang (tổng hợp)