Menu
×

Tình hình mắc bệnh đái tháo đường trên thế giới và Việt Nam

Ngày đăng: 21/06/2017 In bài viết này

SKNT - Trên thế giới: Bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) trong đó chủ yếu là ĐTĐ týp 2 thường được phát hiện muộn với những biến chứng nặng nề, chi phí điều trị và quản lý bệnh rất tốn kém; bệnh đang trở thành dịch bệnh nguy hiểm trên toàn cầu, đặc biệt ở các nước đang phát triển.

1) Trên thế giới: Bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) trong đó chủ yếu là ĐTĐ týp 2 thường được phát hiện muộn với những biến chứng nặng nề, chi phí điều trị và quản lý bệnh rất tốn kém; bệnh đang trở thành dịch bệnh nguy hiểm trên toàn cầu, đặc biệt ở các nước đang phát triển.

ĐTĐ là bệnh đã có từ lâu; nhưng đặc biệt phát triển trong những năm gần đây, bệnh tăng nhanh theo tốc độ phát triển của nền kinh tế - xã hội. Năm 1994, toàn thế giới có 110 triệu người đái tháo đường, năm 1995 tăng lên 135 triệu (4% dân số thế giới). Ước tính của Liên đoàn Đái tháo đường Quốc tế (IDF) số người mắc bệnh ĐTĐ năm 2010 là 246 triệu người, năm 2014 là 422 triệu người, tốc độ gia tăng của bệnh ĐTĐ là 55% mỗi năm. Dự kiến số người ĐTĐ sẽ tăng lên 642 triệu người vào năm 2040. Bên cạnh đó, số người tiền ĐTĐ cũng đang trở thành vấn đề sức khỏe chính toàn cầu do người tiền ĐTĐ có nguy cơ rất cao phát triển thành bệnh ĐTĐ thực thụ cũng như nguy cơ tăng cao về các bệnh lý tim mạch. Theo ước tính của Liên đoàn Đái tháo đường Quốc tế chỉ tính riêng các đối tượng rối loạn dung nạp glucose của năm 2013 là 316 triệu người (6,9%), ước tính con số này sẽ tăng lên 471 triệu người (8,0%) vào năm 2035.

Khu vực Tây Thái bình dương (trong đó có Việt Nam) hiện chiếm tỉ lệ bệnh ĐTĐ cao nhất (chiếm khoảng 37%). Theo ước tính có 9,3% người trưởng thành từ 20-79 tuổi mắc bệnh đái tháo đường tương ứng với 153 triệu người mắc bệnh ĐTĐ ở khu vực này. Trong đó có trên 50% người mắc ĐTĐ không được chẩn đoán, đáng chú ý là 61% sống ở các thành phố và đô thị lớn, 80% người mắc bệnh ĐTĐ sống ở các nước có thu nhập thấp và trung bình.

Theo dự đoán của các chuyên gia y tế thế giới trong vòng 20 năm tới bệnh sẽ tăng 42% ở các nước công nghiệp phát triển, trong khi những nước đang phát triển tỉ lệ bệnh sẽ tăng tới 170%.

2) Ở Việt Nam: Nước ta nằm trong khu vực Tây Thái Bình dương – Khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất của đại dịch thế kỷ “Bệnh đái tháo đường”.

Bệnh ĐTĐ phát triển nhanh, năm 1990 ở Hà Nội có tỉ lệ chỉ 1,2%, Huế 0,96%, TP. Hồ Chí Minh có tỉ lệ 2,52%. Theo điều tra năm 2001, tỉ lệ bệnh đái tháo đường týp 2 ở các thành phố lớn: Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh tỉ lệ đái tháo đường là 4,9%, tỉ lệ rối loạn dung nạp glucose là 5,9%. Tỉ lệ người có yếu tố nguy cơ phát triển đến đái tháo đường, chiếm tới 38,5% (lứa tuổi 30-60).

Năm 2014 theo ước tính của Liên đoàn Đái tháo đường Quốc tế, Việt Nam là quốc gia có số người mắc ĐTĐ nhiều nhất trong số các quốc gia Đông Nam Á với 3.299 triệu người mắc ĐTĐ chiếm khoảng 5,8% người trưởng thành từ 20-79 tuổi.

Cũng như các nước đang phát triển khác, do trình độ hiểu biết còn hạn chế,  người bệnh mắc ĐTĐ ở nước ta thường được phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn và thường đến bệnh viện với những biến chứng nặng nề. Cũng trong điều tra này có tới trên 60% số người mắc bệnh đái tháo đường không được chẩn đoán và điều trị.

3) Đái tháo đường là gánh nặng cho nền kinh tế, xã hội toàn thế giới trong thế kỷ 21.

Năm 1997 toàn thế giới chi cho chữa bệnh ĐTĐ vào khoảng 1.030 tỉ đôla Mỹ, riêng nước Mỹ với 15 triệu người mắc bệnh ĐTĐ đã phải tiêu tốn 98,2 tỉ đôla. Ở các nước công nghiệp phát triển chi phí cho bệnh ĐTĐ thường chiếm từ 5-10% ngân sách dành cho Y tế.

Đến năm 2013, theo ước tính chi phí trực tiếp và gián tiếp cho bệnh ĐTĐ khoảng 827 tỉ đô la Mỹ. Liên đoàn Đái tháo đường Quốc tế ước tính chi phí cho căn bệnh ĐTĐ đã tăng gấp 3 lần từ năm 2003 đến năm 2013. Một nghiên cứu khác ước tính chi phí toàn cầu cho bệnh ĐTĐ hàng năm là 1,7 nghìn tỉ USD, trong đó 900 tỉ USD là của các nước phát triển, 800 tỉ USD là của các nước có thu nhập thấp và trung bình.

Người ta chia chi phí bệnh tật ra làm 3 loại:

+ Chi phí trực tiếp: gồm những chi phí mà người bệnh và gia đình họ phải trực tiếp gánh chịu, những chi phí trực tiếp của ngành y tế chi cho người bệnh.

+ Chi phí gián tiếp: là những chi phí mà người ĐTĐ gián tiếp gây ra cho nền kinh tế xã hội, do họ mất khả năng lao động, tàn tật, nghỉ hưu sớm trước tuổi, những chi phí về thuốc men, phương tiện đi lại, điều kiện sinh hoạt,… mà xã hội phải     giành cho họ. Trong thực tế nhóm chi phí này cao hơn chi phí trực tiếp nhiều lần.

+ Chi phí vô hình: là giá phải trả của bệnh ĐTĐ giành cho bản thân người ĐTĐ, cho gia đình họ, cho xã hội (như các stress, nỗi đau đớn, buồn chán,…). Đây là loại chi phí không thể tính bằng tiền, nhưng lại là vấn đề xã hội rất lớn. Vì thế để nâng cao chất lượng cuộc sống của người bệnh ĐTĐ không chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành Y tế, mà là của cả xã hội.

Ở Việt Nam, tuy chưa có điều kiện để nghiên cứu về các chi phí gián tiếp và chi  phí vô hình, nhưng chỉ tính riêng các chi phí trực tiếp cũng đã là gánh nặng cho mỗi cá nhân và cả nền kinh tế, cho xã hội. Mức chi phí bình quân cũng thay đổi tuỳ thuộc vào số lượng và mức độ các biến chứng. Đa số người bệnh không đủ khả năng chi trả cho việc điều trị ĐTĐ. Theo một nghiên cứu thực hiện tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương số người có sẵn để chi trả viện phí chỉ có 27,3%; phải bán đồ vật có giá trị trong gia đình để đi nằm viện là 21,2%; phải đi vay mượn để trả tiền điều trị là 51,5%.

PGS.TS. Tạ Văn Bình