Đăng ký
Vui lòng nhập các thông tin cần thiết
U cũng được chia làm 2 loại chủ yếu là đơn nhân và đa nhân. Đa nhân là trường hợp u có nhiều nhân lớn và nhân nhỏ rất khó thấy và phải nhờ đến siêu âm mới phát hiện được. Sự phát triển của các khối u này thường có liên quan đến viêm giáp hoặc phẫu thuật.
Thành phần của u thường là chứa dịch hoặc đặc; trong đó 75 – 85% là đặc.
Có thể phân loại là Adenoma tuyến giáp tức Adenoma sinh ra từ sự bất thường của lớp trong, khối này có chức năng như một cái nôi tạo hormon, nếu quá nhiều hormon sinh ra cường giáp, quá ít sinh ra suy giáp. Nên nếu xuất hiện adenoma làm rối loạn chức năng giáp thì phải sớm điều trị để tránh các biến chứng như viêm giáp sau này.
Còn như Ung thư tuyến giáp, căn bệnh này dường như không còn xa lạ với nhiều người, đây là bệnh nguy hiểm, tuy nhiên lại có tỉ lệ sống cao, trung bình khoảng từ 90 – 95%. Tuy nhiên cũng không thể vì thế mà lơ là.
Ngày nay U tuyến giáp, các nhà khoa học vẫn còn đang rất băn khoăn trong việc xác định nguyên nhân gây nên hiện tượng này, tuy nhiên có thể rút ra một số tác nhân gây bệnh như người bệnh từng tiếp xúc với hóa trị, xạ trị; Di chứng của viêm tuyến giáp hoặc phẫu thuật vùng cổ; Do hormon cơ thể biến đổi, miễn dịch yếu; Do di truyền.
Đa số u tuyến giáp là ở thể lành tính, bệnh đôi khi cũng có thể đem lại rất nhiều phiền toái. Nếu u to sẽ ảnh hưởng về mặt thẩm mỹ, đồng thời có khả năng chèn ép lên các cơ khác như hô hấp,hoặc ảnh hưởng đến nói chuyện. U có thể gây rối loạn chức năng tuyến giáp. Đối với thể ác tính, bệnh có thể gây tử vong nếu không điều trị sớm.
Dấu hiệu U tuyến giáp thường phát triển khá im lặng, về cơ bản rất khó phát hiện. Đa số trường hợp bệnh nhân chỉ phát hiện khi u đã lớn, nhìn rõ bằng mắt thường, hoặc khám định kỳ phát hiện trên hình ảnh siêu âm; có trường hợp khi khám các u đã chen chúc nhau xuất hiện. Nếu u lớn, có thể gây chèn ép, làm người bệnh khàn tiếng, nuốt vướng, hô hấp khó khăn. Còn u tiến triển gây cường giáp thì sẽ có biểu hiện bệnh cường giáp.
Đối với thể ác tính là ung thư tuyến giáp thì bệnh cũng khá im lặng, tuy nhiên khi bệnh đã phát triển đến giai đoạn nhất định thường có một số biểu hiện cụ thể như khàn tiếng, nuốt khó, nổi hạch, u bám quanh cổ, đôi khi chảy máu và gây bội nhiễm.
Đại thể U tuyến giáp
Để chẩn đoán căn nguyên u cần làm xét nghiệm hormon, siêu âm tuyến giáp,... Trong đó, xét nghiệm hormon xem cường giáp hay không, còn siêu âm giúp xác định vị trí u và đặc tính của chúng. Đôi khi các bác sĩ cũng chỉ định xác nhận bằng iốt phóng xạ. Vì tuyến giáp hấp thu iốt trên toàn cơ thể, nên iốt đã uống sẽ tập trung hết về đó, và tạo hình ảnh hiển thị khi chụp.
Tiếp theo các bác sĩ thường lấy sinh thiết để xác định u lành tính hay ác tính. Với trường hợp ác tính thì nhân cứng, phát triển nhanh, nhân hiển thị tập trung khi chụp iốt phóng xạ. Tuy nhiên trường hợp này chỉ chiếm 5% các ca u giáp.
Trong trị liệu mỗi loại u, tùy thuộc vào kích thước, tính chất, thành phần của u mà có điều trị thích hợp. Chẳng hạn với u lành thường chỉ tiến hành theo dõi định kỳ. Vì nếu u nhỏ và không ảnh hưởng thì không cần điều trị, chỉ cần khám thường xuyên và xét nghiệm đầy đủ.
Nếu u lớn ảnh hưởng nhiều đến thẩm mỹ thì có thể sẽ phải điều trị thuốc hoặc phẫu thuật. Trong đó thường bác sĩ sẽ chỉ định theo dõi trong 6 tháng trước, nếu u không to thì có thể theo dõi tiếp, còn nếu lớn thêm thì có thể sẽ phải mổ. Tuy nhiên với các u nước cần chọc thoát dịch, chủ yếu các u nang nước thường tự tiêu biến sau khi chọc dịch.
Với u ác hoặc đang bị nghi ngờ ác tính thông thường giải pháp cho u tuyến giáp ác tính là phẫu thuật. Nếu bệnh tiến triển nhanh, có thể sẽ phải xạ trị iốt phóng xạ hoặc cắt bỏ toàn bộ tuyến giáp, gây ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của bệnh nhân. Vì vậy cần xem xét kĩ trước khi quyết định điều trị.
BS. Hoàng Xuân Đại (Theo SK&ĐS)